Một số vấn đề về Thư chấp thuận trong thủ tục đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam

Khái niệm chung về Thư chấp thuận:

Trong lĩnh vực Sở hữu trí tuệ nói chung và trong thủ tục đăng ký xác lập quyền Nhãn hiệu nói riêng, khái niệm Thư chấp thuận hay còn gọi là Thư đồng ý (tiếng Anh “Letter of Consent” – LC) được hiểu là tài liệu dạng văn bản được ký và cấp bởi chủ sở hữu của một nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ trước (thường là nhãn hiệu đối chứng) thể hiện sự đồng ý và không phản đối với việc đăng ký và sử dụng một nhãn hiệu trùng hoặc tương tự được nộp đơn sau đó bởi chủ thể khác cho cùng sản phẩm/dịch hoặc sản phẩm/dịch vụ tương tự hoặc liên quan.

Thư chấp thuận theo quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam:

Luật SHTT hiện hành của Việt Nam không có điều khoản quy đinh cụ thể về Thư chấp thuận. Tuy nhiên ở một vài điều khoản có gián tiếp đề cập đến một hình thức cấp thư chấp thuận liên quan đến “Quyền đăng ký nhãn hiệu” – Điều 87 Luật SHTT:

– Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động thương mại hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm mà mình đưa ra thị trường nhưng do người khác sản xuất với điều kiện người sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm và không phản đối việc đăng ký đó – Khoản 2

– Đối với nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu đăng ký nhãn hiệu đó mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên thì người đại diện hoặc đại lý đó không được phép đăng ký nhãn hiệu nếu không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu, trừ trường hợp có lý do chính đáng – Khoản 7

Tại điểm 37 của Thông tư số 01/2007 về Yêu cầu đối với đơn đăng ký nhãn hiệu cũng có quy định:

«(ii) Thoả thuận, thư xác nhận người sản xuất không sử dụng nhãn hiệu và không phản đối việc đăng ký nhãn hiệu của người tiến hành hoạt động thương mại sản phẩm của người sản xuất theo quy định tại khoản 2 Điều 87 của Luật Sở hữu trí tuệ;

 (vi) Thoả thuận, thư đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu xác nhận quyền đăng ký nhãn hiệu của người đại diện, đại lý theo quy định tại khoản 7 Điều 87 của Luật Sở hữu trí tuệ và Điều 6septies của Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp»

Thực tiễn thẩm định đơn đăng ký nhãn hiệu liên quan đến Thư chấp thuận tại Việt Nam và một số vấn đề mới nảy sinh

Trong thực tiễn hàng chục năm, dù pháp luật không có quy định cụ thể, nhưng Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam (Cục SHTT) về cơ bản đã chấp nhận tình pháp lý của tài liệu “Thư chấp thuận” trong quá trình thẩm định, thẩm định lại hay xem xét khiếu nại liên quan đến đơn đăng ký nhãn hiệu. Việc chấp nhận Thư chấp thuận dựa trên cơ sở và nguyên tắc là việc đồng tồn tại nhãn hiệu xin đăng ký và nhãn hiệu đối chứng trên thị trường không gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Tất nhiên, phù hợp với thông lệ quốc tế, để được xem xét và chấp nhận trong quá trình đăng ký xác lập quyền, thì thông thường Thư chấp thuận cũng phải đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn nhất định về mặt nội dung, hình thức…

Điều đáng nói là, gần đây trong thực tế thẩm định đơn đăng ký nhãn hiệu tại Cục SHTT đang nổi lên một số quan điểm có sự khác biệt rất đáng kể so với trước đây. Trong đó có một số luồng quan điểm chính dưới đây:

  1. Quan điểm cho rằng: Vì luật không /chưa có quy định cụ thể nên không có cơ sở, căn cứ để xem xét tính hợp lý và hợp pháp của Thư chấp thuận! Trước đây thực tiễn vẫn chấp thuận là đã áp dụng sai pháp luật. Quan điểm này dựa trên nguyên tắc: vì cán bộ, công chức nhà nước trong hoạt động công vụ chỉ được làm nhưng gì mà pháp luật cho phép. Nếu cố tình lạm quyền làm quá phạm vi pháp luật cho phép, sau này có phát sinh khiếu nại, khiếu kiện liên quan thì người thi hành công vụ (thẩm định viên) sẽ chịu rủi ro có thể bị kỷ luật…
  2. Quan điểm cho rằng: Vì luật hiện hành không có quy định cụ thể, nhưng theo thông lệ quốc tế và thực tiễn thẩm định từ trước đến nay thì vẫn có thể xem xét chấp nhận giá trị pháp lý của Thư chấp thuận để làm cơ sở cấp bảo hộ cho nhãn hiệu. Tuy nhiên, để giảm thiểu rủi ro tiềm ẩn phát sinh, sẽ chỉ nên chấp nhận Thư chấp thuận trong một số ít các trường hợp cụ thể, ví dụ chỉ chấp nhận đối với trường hợp chủ đơn và chủ nhãn hiệu đối chứng là công ty mẹ – con thuộc cùng một tập đoàn, hoặc là công ty liên kết, và /hoặc trong nội dung Thư chấp thuận phải có cam kết của chủ nhãn hiệu đối chứng về việc sẽ không khiếu kiện, khiếu nại đối với việc đăng ký và sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ trên cơ sở Thư chấp thuận…
  3. Quan điểm cho rằng: Vì Thư chấp thuận về cơ bản để nhằm mục đích làm cơ sở xem xét cấp văn bằng bảo hộ cho đơn xin đăng ký nhãn hiệu trong thủ tục xác lập quyền nên cần có giới hạn về thời hạn (và thủ tục) cung cấp Thư chấp thuận của chủ đơn. Cụ thể, nếu trong quá trình thẩm định đơn đăng ký nhãn hiệu, chủ đơn cung cấp được Thư chấp thuận hợp lệ từ chủ nhãn hiệu đối chứng, thì đơn đăng ký nhãn hiệu có thể được cấp bảo hộ. Nhưng nếu sau khi kết thúc thủ tục thẩm định – tức là sau khi Cục SHTT đã ra Quyết định từ chối đơn đăng xin ký nhãn hiệu thì chủ đơn không thể thực hiện quyền khiếu nại Quyết định từ chối dựa trên cơ sở một Thư chấp thuận được cấp sau khi đã có Quyết định từ chối chính thức. Quan điểm này dựa trên cơ sở rằng: Quyết định từ chối đơn đăng ký nhãn hiệu được ban hành không trái pháp luật nên không thuộc đối tượng bị khiếu nại theo quy định của pháp luật khiếu nại.

Bình luận và kiến nghị:

Chúng tôi nhận thấy, các quan điểm nêu ra trên đây không phải là không có cơ sở, cả về pháp lý và thực tiễn. Tuy nhiên đưa vào áp dụng các quan điểm trên vào trong hoạt động thẩm định đơn nhãn hiệu trên thực tế sẽ tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến các hậu quả pháp lý bất lợi cho chủ đơn; tạo nên sự bất bình đẳng giữa quyền của chủ đơn đăng ký nhãn hiệu trước và sau khi quan điểm mới được áp dụng; thậm chí làm vô hiệu hóa và kéo theo nhiều rủi ro liên quan đến trách nhiệm pháp lý đối với các ý kiến tư vấn về Thư chấp thuận mà các cá nhân người đại diện sở hữu công nghiệp, tổ chức đại diện Sở hữu công nghiệp đã đưa ra trước khách hàng của mình là chủ đơn đăng ký nhãn hiệu…

Trước thực tế trên, để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của chủ đơn, đồng thời đảm bảo tính nhất quán, tính chuyên nghiệp của dịch vụ tư vấn và đại diện sở hữu công nghiệp của các Tổ chức dịch vụ đại diện, chúng tôi cho rằng: việc Cục SHTT thay đổi quan điểm và đưa vào áp dụng trong thực tế thẩm định đơn đăng ký nhãn hiệu rất cần có một khoảng thời gian chuyển tiếp hợp lý nào đó và chỉ nên bắt đầu áp dụng sau khi có một Thông báo chính thức trước đó.

Về lâu dài, để tạo cơ sở pháp lý cho việc thống nhất áp dụng quy định về Thư chấp thuận trong thủ tục đăng ký xác lập quyền nhãn hiệu, cần thiết phải luật hóa trong Luật Sở hữu trí tuệ một số quy định cơ bản về Thư chấp thuận như: Nội dung cơ bản, bắt buộc của Thư chấp thuận, Hình thức của Thư chấp thuận (thủ tục công chứng, hợp pháp hóa, ngôn ngữ của Thư chấp thuận), Thời hạn và giới hạn chấp nhận Thư chấp thuận, Phạm vi và điều kiện để Thư chấp thuận có thể được chấp nhận làm cơ sở cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, Việc sử dụng thực tế nhãn hiệu được cấp dựa trên Thư chấp thuận, Thủ tục gia hạn, chuyển nhượng, li-xăng đối với nhãn hiệu được cấp dựa trên Thư chấp thuận…

Trịnh Dương Vân

Phòng Thực thi quyền Sở hữu Trí tuệ

INVESTIP – IP LAW FIRM