Với hàng loạt sửa đổi nhằm gỡ bỏ những vướng mắc trong quá trình xác lập, bảo hộ và khai thác quyền sở hữu trí tuệ, dự thảo sửa Luật Sở hữu trí tuệ lần này được kỳ vọng sẽ biến quyền sở hữu trí tuệ thành tài sản có giá trị thương mại thực sự, tạo cú hích cho đổi mới sáng tạo của Việt Nam.

Ảnh: Shutterstock.
Đẩy nhanh quá trình xác lập quyền
Thời gian chờ đợi quá lâu khi đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ ở Việt Nam là một trong những rào cản cơ bản, khiến doanh nghiệp bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh và ảnh hưởng đến quá trình thương mại hóa tài sản trí tuệ. Vì vậy, “việc xử lý đơn đăng ký sở hữu công nghiệp kéo dài là một vấn đề gây bức xúc trong thời gian vừa qua”, Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh nhận xét trong cuộc họp Tổ soạn thảo xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ diễn ra vào ngày 27/8.
Để tháo gỡ nút thắt này, dự thảo sửa Luật Sở hữu trí tuệ hiện nay đã có nhiều sửa đổi, bổ sung liên quan đến đơn giản hóa thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian xử lý đơn sở hữu công nghiệp. Chẳng hạn, thời hạn công bố đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý sẽ giảm xuống một nửa, từ hai tháng còn một tháng kể từ ngày đơn được coi là hợp lệ. Thời gian phản đối đơn sở hữu công nghiệp cũng được cắt giảm – đơn sáng chế từ chín tháng giảm còn sáu tháng, đơn nhãn hiệu từ năm tháng xuống còn ba tháng. Tương tự như vậy, thời hạn phản đối đơn nhãn hiệu, trong lần sửa đổi trước đã được rút ngắn từ chín tháng xuống còn năm tháng, đến nay tiếp tục giảm xuống còn ba tháng, hoặc bỏ bước thông báo đơn hợp lệ đối với đơn đăng ký sở hữu công nghiệp. “Việc sửa đổi, bổ sung theo hướng giảm thời hạn người thứ ba được phản đối đơn cho phù hợp với việc giảm thời hạn xử lý đơn và cho phù hợp với thông lệ quốc tế, để đẩy nhanh quá trình thẩm định đơn”, ông Nguyễn Văn Bảy, Phó Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH&CN), giải thích.
Luật Sở hữu trí tuệ đã từng được sửa lần gần nhất vào năm 2022, chủ yếu tập trung vào thực hiện các cam kết quốc tế liên quan đến các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam tham gia vào thời điểm đó như CPTPP, EVFTA, RCEP. Các hiệp định này đều có xu hướng “siết chặt” bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Nếu muốn thu hút đầu tư nước ngoài và hưởng những lợi ích khác nhờ các hiệp định này, Việt Nam bắt buộc phải tuân thủ các cam kết. Để “tìm điểm cân bằng” giữa lợi ích quốc gia và cam kết quốc tế, lần sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022 đã đi theo hướng siết chặt bảo bộ quyền sở hữu trí tuệ, nhưng vẫn ở mức phù hợp với điều kiện của một quốc gia đang phát triển.
Năm 2025, Luật Sở hữu trí tuệ tiếp tục được sửa đổi trong bổi cảnh thực hiện các chính sách phát triển khoa học, công nghệ (Nghị quyết 57-NQ/TW) và kinh tế tư nhân (Nghị quyết 68-NQ/TW), đáp ứng các yêu cầu về tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và thúc đẩy xác lập và khai thác quyền sở hữu trí tuệ. Chẳng hạn, Nghị quyết 57 đặt mục tiêu đến năm 2030, tỷ lệ khai thác thương mại sáng chế đạt 8-10%, còn Nghị quyết 68 yêu cầu cắt giảm tối đa thời gian thực hiện thủ tục yêu cầu cấp quyền sở hữu trí tuệ. Do vậy, những “nút thắt” liên quan đến xác lập quyền đã được gỡ bỏ phần nào trong lần sửa đổi trước lại tiếp tục được giải quyết triệt để hơn trong dự thảo lần này. Bao gồm việc cắt giảm thủ tục và rút ngắn thời gian xử lý đơn.
Để đẩy nhanh quá trình xác lập quyền, bên cạnh việc rút ngắn quy trình xử lý, Cục Sở hữu trí tuệ còn tìm cách thuê ngoài một số công đoạn nhằm tối ưu hóa hiệu suất trong bối cảnh lượng đơn tồn đọng lớn, nguồn lực lại hạn chế như hiện nay. Để bảo mật thông tin trong đơn đăng ký trước khi công bố, dự thảo đã bổ sung thêm các đối tượng viên chức, người lao động liên quan đến quy trình xử lý đơn cũng phải chịu trách nhiệm bảo mật thông tin trong đơn đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp trước khi công bố. “Nghĩa vụ bảo mật đơn phải được quy định cho tất cả tổ chức, cá nhân tham gia quá trình xử lý đơn”, theo báo cáo phân tích dự thảo sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ. “Đồng thời, quy định này nhằm bảo đảm phù hợp với tình hình hiện nay, để tối ưu hóa hiệu suất công việc một số công đoạn kỹ thuật của quá trình xử lý đơn sẽ thuê bên ngoài thực hiện và với tình hình phải tinh giảm biên chế, thu gọn bộ máy cơ quan nhà nước”.
Thúc đẩy hoạt động thương mại hóa
Xác lập quyền chỉ là bước đầu tiên trên hành trình phát triển tài sản trí tuệ. Điều quan trọng là làm thế nào để quyền sở hữu trí tuệ thực sự mang lại lợi ích kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Muốn vậy, “chúng ta phải thúc đẩy thương mại hóa quyền sở hữu trí tuệ”, Thứ trưởng Hoàng Minh nhận xét. “Cũng giống như các quốc gia phát triển, chúng ta hướng đến việc gia tăng giá trị tài sản vô hình, tài sản trí tuệ nhiều hơn là tài sản hữu hình. Để làm được điều này, chúng ta phải đưa quyền sở hữu trí tuệ, tài sản trí tuệ vào lưu thông. Đây là một vấn đề rất khó”.
Để nhấn mạnh khía cạnh kinh tế của quyền sở hữu trí tuệ, dự thảo đã bổ sung định nghĩa “tài sản trí tuệ”. Nếu được thông qua, đây sẽ là lần đầu tiên khái niệm tài sản trí tuệ được định nghĩa trong Luật Sở hữu trí tuệ. Theo đó, tài sản trí tuệ là quyền tài sản gắn liền với đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ được pháp luật bảo hộ, có giá trị kinh tế và khả năng khai thác thương mại. “Việc bổ sung giải thích từ ngữ ‘tài sản trí tuệ’ nhằm làm rõ quyền tài sản trong quyền sở hữu trí tuệ là tài sản, có giá trị kinh tế và khả năng khai thác thương mại để thuận lợi cho hoạt động của sản xuất, kinh doanh của tổ chức, cá nhân, phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự”, ông Nguyễn Văn Bảy cho biết. Tuy nhiên, có những ý kiến khác tại hội thảo xung quanh vấn đề này. “Liệu chủ sở hữu tài sản trí tuệ có bắt buộc phải chứng minh tài sản của mình có giá trị kinh tế, có khả năng khai thác thương mại thì mới được công nhận là tài sản trí tuệ hay không? Và làm thế nào để họ chứng minh được điều này?”, một chuyên gia góp ý trong hội thảo. “Chúng ta nên xem xét lại về việc có nhất thiết phải quy định từ tài sản trí tuệ hay không”.
Với mục tiêu biến tài sản trí tuệ thành tài sản có giá trị thương mại, dự thảo còn đề xuất yêu cầu các quyền sở hữu trí tuệ phải được ghi nhận vào sổ kế toán. Sau ghi nhận ban đầu, chủ sở hữu quyền có thể xác định lại giá trị hợp lý của quyền sở hữu trí tuệ tại thời điểm cuối kỳ lập báo cáo tài chính. Dù được coi là một loại tài sản giá trị, thậm chí vượt qua tài sản hữu hình song thực tế ở Việt Nam, rất khó để sử dụng tài sản trí tuệ trong giao dịch. Việc xác định giá trị tài sản trí tuệ là một khâu khó khăn do giá trị của chúng thường biến động và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tiềm năng thị trường, khả năng bảo hộ, và khả năng sinh lời. “Thiếu các tiêu chuẩn xác định giá trị khiến các giao dịch tài sản trí tuệ trở nên thiếu tin cậy”, theo báo cáo phân tích dự thảo sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ. Do vậy, “việc xây dựng một bộ tiêu chuẩn xác định giá trị và hạch toán kế toán riêng cho tài sản trí tuệ sẽ tạo cơ sở vững chắc, minh bạch và thống nhất để các bên liên quan (ngân hàng, nhà đầu tư, cơ quan thuế) có thể tin tưởng và sử dụng khi thực hiện các giao dịch liên quan đến sở hữu trí tuệ”.
Tuy nhiên, từ thực tế rằng không phải ai cũng có sổ kế toán, đại diện của Bộ Tài chính đề nghị Tổ soạn thảo cần điều chỉnh lại bởi quy định dự thảo đề xuất mới đề cập đến quyền sở hữu trí tuệ của các doanh nghiệp và bỏ qua cá nhân.
Bên cạnh đó, ngay cả khi chứng minh tài sản trí tuệ có giá trị thông qua ghi nhận trong sổ kế toán, làm thế nào để ngân hàng hoặc nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận loại tài sản đầy bất định này? Để tháo gỡ nút thắt này, dự kiến Chính phủ sẽ ban hành các chính sách thí điểm về tài chính đối với quyền sở hữu trí tuệ bao gồm hỗ trợ hoặc bảo lãnh vay vốn trên cơ sở thế chấp quyền sở hữu trí tuệ; sử dụng quyền sở hữu trí tuệ để huy động vốn trên thị trường chứng khoán; phát triển sản phẩm bảo hiểm và các sản phẩm tài chính khác liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ.
Những giải pháp tương tự đã được triển khai ở nhiều quốc gia trên thế giới. Chẳng hạn Nhật Bản đã thành lập các quỹ bảo lãnh như Tổ chức Bảo lãnh tín dụng Nhật Bản (JCGC) cùng các tổ chức bảo lãnh tín dụng để đảm bảo khoản vay dùng quyền sở hữu trí tuệ làm tài sản đảm bảo nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn ngân hàng. Nếu doanh nghiệp không trả được nợ tạm thời, quỹ này sẽ thanh toán thay trước, sau đó doanh nghiệp sẽ hoàn trả sau. Trong khi đó, Trung Quốc đã ban hành nhiều quy định nhằm thúc đẩy cho vay thế chấp quyền sở hữu trí tuệ như: tách kế hoạch tín dụng riêng, nới trần nợ xấu cho vay sở hữu trí tuệ, và miễn trách nhiệm cho ngân hàng nếu thực hiện đúng quy định nghiệp vụ. Trung Quốc cũng khuyến khích các công ty bảo hiểm phát triển sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm vi phạm sở hữu trí tuệ ở nước ngoài, bảo hiểm thiệt hại do bị xâm phạm sáng chế, góp phần tăng khả năng phòng ngừa rủi ro và hỗ trợ doanh nghiệp.
“Trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế, bổ sung quy định này nhằm tạo cơ sở để Chính phủ triển khai thí điểm một số chính sách về tài chính áp dụng thử nghiệm để đánh giá tính phù hợp và khả thi ở Việt Nam”, ông Nguyễn Văn Bảy phân tích. “Quy định này nhằm mục tiêu chính là biến tài sản trí tuệ thành tài sản có giá trị thương mại thực sự, có thể khai thác và sử dụng như các tài sản hữu hình khác. Từ đó, thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo, tạo động lực cho các cá nhân và doanh nghiệp đầu tư vào việc tạo ra, bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ”.
Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ do Bộ KH&CN chủ trì hiện đang được lấy ý kiến của các bên liên quan. Theo Thứ trưởng Hoàng Minh, lần sửa đổi này nhằm “tập trung giải quyết những vướng mắc nổi cộm liên quan đến việc thực thi Luật Sở hữu trí tuệ trong thời gian vừa qua, từ việc cắt giảm thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian xử lý đơn, cho đến thúc đẩy thương mại hóa quyền sở hữu trí tuệ”. |
Bài đăng KH&PT số 1360 (số 36/2025)
Thanh An
Nguồn: Báo Khoa học & phát triển
